Sau khi đã “bội thực” với các loại
nông sản công nghệ cao kiểu biến đổi gen hay kích thích tăng trưởng, rất
nhiều người tiêu dùng bắt đầu quay về với thiên nhiên, tìm đến thực
phẩm hữu cơ. Đó không chỉ là xu thế tất yếu ở các nước phát triển mà
cũng ngày càng lan tỏa ở cả Nhật Bản lẫn Việt Nam.
Sự trỗi dậy mạnh mẽ trên toàn cầu
Thị trường thực phẩm hữu cơ thế giới đã
tăng gần như từ không có gì đến hơn 70 tỷ USD trong 30 năm qua.
“Organic” đã tạo được tiếng vang vì quy trình sản xuất theo hình thức
cao của nông nghiệp sinh thái và đảm bảo cho người tiêu dùng khỏi nỗi lo
về nguồn gốc và xuất xứ của thực phẩm.
Theo Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ
(FiBL) và Liên đoàn Phong trào Nông nghiệp Hữu cơ Quốc tế (IFOAM), đến
cuối năm 2013, thế giới có 170 quốc gia ứng dụng nông nghiệp hữu cơ với
tổng diện tích 43.1 triệu ha, chiếm khoảng 1% diện tích đất nông nghiệp
trên toàn thế giới. Tổng doanh thu từ thị trường thực phẩm hữu cơ thế
giới đạt khoảng 72 tỷ USD trong năm 2013, tăng gần 5 lần so với năm 1999
(theo Organic Monitor). Dự đoán thị trường sẽ tiếp tục tăng trưởng
trong những năm tới.
Người Nhật sẵn lòng trả giá cao cho sản phẩm hữu cơ
Người Nhật là một trong số những người
tiêu dùng đòi hỏi khắt khe nhất trên thế giới và rất xem trọng vấn đề
chất lượng và an toàn thực phẩm, cũng như có ý thức rất cao về vấn đề
môi trường sinh thái. Chính vì thế, Nhật Bản được xem là thị trường hữu
cơ tiềm năng nhất trong khu vực Châu Á. Người tiêu dùng đánh giá cao
nhãn chứng nhận hữu cơ và thể hiện sự sẵn sàng trả giá cao cho mặt hàng
có chứng nhận này.
Một góc chợ rau củ hữu cơ (Photo: ict.wa4)
Hiện nay, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm
hữu cơ đã vượt quá nguồn cung, đặc biệt sau sự ra đời của luật thực phẩm
hữu cơ, có hiệu lực vào tháng 4/2001, yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt tiêu
chuẩn quốc gia mới. Từ “Hữu cơ” chỉ được sử dụng cho các loại thực phẩm
được chứng nhận và đóng dấu niêm “Organic JAS”.
Nhật Bản có 10.611 ha đất nông nghiệp
hữu cơ, chiếm 0.3% tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước. Có 2.130 nhà
sản xuất hiện đang ứng dụng loại hình này. Theo khảo sát của IFOAM Nhật
Bản, thị trường thực phẩm hữu cơ Nhật trong năm 2010 đạt khoảng 1.3 đến
1.4 tỷ USD. Tuy nhiên, thị phần hữu cơ chỉ chiếm 0.24% tổng sản lượng
nông nghiệp nội địa.
Như vậy, rõ ràng thị trường hữu cơ của
Nhật vẫn còn trong giai đoạn sơ khai. Điều này một phần do nguồn cung
nội địa hạn chế, các kênh phân phối chưa phát triển, và đặc biệt là do
quy định nhập khẩu của Nhật cực kỳ nghiêm ngặt.
Người Việt ngày càng quan tâm đến thực phẩm hữu cơ
Thực phẩm hữu cơ có lẽ vẫn còn khá mới
mẻ với đa số người Việt. Tuy nhiên, nó đang là xu hướng được nhiều người
tiêu dùng thành thị lựa chọn, vì những lo ngại về an toàn thực phẩm. Hệ
thống các cửa hàng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam đang bán các mặt hàng
khá phong phú với khoảng 300 sản phẩm từ các loại rau quả, trái cây,
thịt, sữa… Ngoài những sản phẩm nuôi trồng trong nước, còn có các sản
phẩm có chứng nhận hữu cơ quốc tế nhập khẩu từ Malaysia, Úc, Ấn Độ, Mỹ…
(Ảnh minh họa: leisuretime70 / PIXTA)
Nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch của người
tiêu dùng là rất lớn nhưng quy trình sản xuất hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn, năng suất thấp nên rất ít doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư. Thị
trường cũng vì thế mà thiếu hụt nguồn cung.
Diện tích nông nghiệp hữu cơ Việt Nam
vào khoảng 37.490 ha, chiếm 0.4% tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước,
và có 6.829 nhà sản xuất hiện đang ứng dụng loại hình canh tác này.
Thực tế cho thấy để tìm được một mảnh
đất hội đủ điều kiện canh tác hữu cơ ở Việt Nam là rất khó, vì đất thâm
canh nhiều năm đã tích tụ phân bón và thuốc trừ sâu. Do vậy, muốn bắt
đầu canh tác hữu cơ, nhà nông phải chứng minh mảnh đất đó có ít nhất 3
năm không canh tác hoặc không sử dụng hóa chất. Trong quá trình canh tác
chỉ được dùng phân bón hữu cơ tự ủ theo quy trình hoặc có chứng nhận
quốc tế. Đồng thời việc phân tích mẫu đất cũng rất phức tạp, cần đến hơn
200 chỉ tiêu theo tiêu chuẩn của Mỹ và Châu Âu.
Nguyên Giang / kilala.vn
EmoticonEmoticon