LOÃNG XƯƠNG: PHẦN I: ĐẠI CƯƠNG HỆ XƯƠNG

Bài viết của BS.ThS Hàn Tiểu Sảo

Loảng xương
Chúng ta sinh ra với khoảng 300 xương mềm. Suốt thời thơ ấu và niên thiếu, sụn phát triển và dần được thay thế bởi xương cứng. Một số xương sau này hợp nhất với nhau, do đó bộ xương người lớn có 206 xương.
Xương đóng nhiều vai trò trong cơ thể : 

• Khung nâng đỡ cơ thể.
• Bảo vệ các tạng.
• Chỗ bám của cơ để chúng ta có thể di chuyển, vận động
• Môi trường cho tủy (nơi các tế bào máu được sản xuất).
• Khu vực lưu trữ các chất khoáng (như cancium).

Dựa theo hình dạng, xương được phân thành 4 loại:

1/ Xương dẹt (flat bones): bề mặt mỏng và rộng, có chức năng bảo vệ, ví dụ các tấm hộp sọ, xương bả vai, xương ức, xương sườn.

2/ Xương dài (long bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu, ví dụ xương đùi, xương cánh tay, xương chày.

3/ Xương ngắn (short bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu giống xương dài nhưng nhỏ hơn nhiều, ví dụ xương đòn, xương bàn và đốt ngón tay chân.

4/ Xương bất định (irregular bones): đai dạng (dài, ngắn, phẳng), ví dụ đốt sống, cổ tay cổ chân, xương bánh chè.

Ngoài ra, còn có các xương vừng (sasemoid bones) nhỏ, phát triển trong các gân cơ nằm quanh khớp xương đề bảo vệ và tăng cường tác động cơ học của gân cơ, sự vững chắc của khớp.
Cấu trúc xương từ ngoài vào trong:
Cấu trúc của xương
• Xương được bao phủ bởi một màng mỏng gọi là màng xương (periosteum: ngoại cốt mạc): là một màng liên kết dai, đính chặt vào xương, gồm 2 lá: lá ngoài chứa các nhánh tận cùng của thần kinh cảm giác nên chấn thương xương thì đau đớn bởi vì các dây thần kinh đau cảm ứng nằm chủ yếu ở màng xương, lá trong chứa các tạo cốt bào, hủy cốt bào và nhiều mạch máu. 
Các mặt khớp không có màng xương.

• Vỏ cứng gọi là vỏ xương (compact bone): là mô xương đặc, rắn chắc. Gồm chủ yếu protein (như collagen) và hydroxyapatite (trong đó bao gồm chủ yếu là canxi và các khoáng chất khác). Hydroxyapatite chịu trách nhiệm về sức mạnh và mật độ của xương. 

• Lớp xốp bên trong (cancellous bone): do nhiều bè xương (trabecular) đan chéo nhau, tạo nên những hốc nhỏ. Mạng lưới các bè xương nhẹ hơn và ít dày đặc hơn so với phần bên ngoài cứng nhưng vẫn đóng góp đáng kể vào sức mạnh của xương. Việc giảm số lượng hoặc chất lượng của bè xương làm tăng nguy cơ gãy xương.

• Tủy xương (bone marrow) là mô lấp đầy khoảng trống trong bè xương. Tủy xương gồm tủy đỏ là nơi tạo huyết chứa những tế bào chuyên biệt (bao gồm cả tế bào gốc) sản xuất các tế bào máu, tủy vàng chứa nhiều tế bào mỡ có trong các ống tủy (medullary cavity) của thân xương dài. 

Xương được cấu tạo bởi:

1/ Nguyên bào tạo xương (osteoblasts) và tế bào tạo xương (osteocytes) tham gia vào việc tạo xương và khoáng hóa mô xương. 

2/ Tế bào hủy xương (hủy cốt bào: osteoclasts): là các tế bào chịu trách nhiệm cho sự hủy xương.
3/ Chất nền collagen và noncollagenous protein (osteoid).

4/ Muối khoáng vô cơ lắng đọng trong chất nền. Độ cứng của xương là do sự hiện diện của muối khoáng trong chất nền, là một phức hợp tinh thể canxi và phosphate (hydroxyapatite). Xương bị vôi hóa có chứa khoảng 25% chất nền hữu cơ (2-5% trong số đó là các tế bào), 5% nước và 70% khoáng vô cơ (hydroxyapatite).

Cấu trúc xương điều chỉnh trong suốt cuộc đời để đáp ứng với hoạt động và sức nặng cơ học. Xương được tu sửa liên tục. Trong quá trình này, xương mới được tạo và xương cũ bị phá hủy, mô xương cũ được dần  thay thế bởi mô xương mới.

Mỗi xương trong cơ thể được hoàn toàn đổi mới mỗi 10 năm. Khi còn trẻ, quá trình tạo xương mới nhanh hơn sự phá hủy xương cũ, nên xương tăng khối lượng. Hầu hết mọi người đạt được đỉnh cao khối lượng xương ở tuổi 30. Sau đó, tu sửa xương vẫn tiếp tục, nhưng sự mất xương nhiều hơn sự tạo xương. Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng bình thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương: sự mất xương vượt quá sự hình thành xương, dẫn đến khối lượng xương thấp, bất thường vi kiến trúc xương, tăng nguy cơ gãy xương.
 
Còn tiếp, phần 2 

Share this

Related Posts

Previous
Next Post »